Skip to main content

2.1a-luat-nhanquyen-quocte


title: Luật nhân quyền quốc tế slug: luat-nhanquyen-quocte sidebar_position: 2.1 description: Tìm hiểu về sự phát triển của luật nhân quyền quốc tế từ Tuyên ngôn phổ quát 1948 đến các công ước nhân quyền hiện đại và nghĩa vụ của các quốc gia. keywords:

  • luật nhân quyền quốc tế
  • UDHR
  • ICCPR
  • ICESCR
  • công ước nhân quyền tags:
  • luật quốc tế
  • nhân quyền
  • công ước
  • UDHR

Bài đọc: Luật nhân quyền quốc tế
Bài đọc có 1105 từ

Phong trào nhân quyền quốc tế phát triển mạnh từ khi Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn phổ quát về Nhân Quyền vào ngày 10/12/1948. Dù tuyên ngôn được chấp nhận rộng rãi như là những chuẩn mực cơ bản về quyền con người thì ban đầu nó vẫn chưa phải là luật vì không có ràng buộc pháp lý. Theo thời gian, một loạt các hiệp ước nhân quyền quốc tế và các công cụ khác được thông qua kể từ năm 1945 đã quy định hình thức pháp lý cho các quyền con người. Đến nay Tuyên ngôn phổ quát về Nhân Quyền cùng với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo thành Luật nhân quyền quốc tế (International Bill of Human Rights)

Hầu hết các Quốc gia cũng đã thông qua hiến pháp và các luật khác chính thức bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Trong khi các điều ước quốc tế và luật là xương sống của luật nhân quyền quốc tế, các công cụ khác, chẳng hạn như tuyên bố, hướng dẫn và nguyên tắc được thông qua ở cấp độ quốc tế lại góp phần vào việc hiểu, thực hiện và phát triển luật nhân quyền.

Luật nhân quyền quốc tế quy định các nghĩa vụ mà các Quốc gia phải tôn trọng. Khi trở thành thành viên của các điều ước quốc tế, các quốc gia thực hiện các nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế nhằm tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền con người:

  • Nghĩa vụ tôn trọng có nghĩa là các Quốc gia phải hạn chế can thiệp việc hưởng các quyền con người.
  • Nghĩa vụ bảo vệ đòi hỏi các quốc gia phải bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại các hành vi vi phạm nhân quyền.
  • Nghĩa vụ thực hiện nghĩa là các quốc gia phải có hành động tích cực để tạo điều kiện cho việc thụ hưởng các quyền cơ bản của con người.

Thông qua việc phê chuẩn các điều ước quốc tế về quyền con người, các Chính phủ cam kết thực hiện các biện pháp và luật pháp trong nước phù hợp với các nghĩa vụ công ước của họ. Trong trường hợp các thủ tục tố tụng trong nước không giải quyết được vấn đề vi phạm nhân quyền, các cơ chế và thủ tục cho các khiếu nại hoặc thông tin liên lạc cá nhân luôn có sẵn ở cấp khu vực và quốc tế để giúp đảm bảo rằng các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế thực sự được tôn trọng, thực hiện và thực thi ở cấp địa phương.

  1. Tuyên ngôn phổ quát về Nhân Quyền
    Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) là một văn kiện quan trọng trong lịch sử nhân quyền được soạn thảo bởi các đại diện có nền tảng luật pháp và văn hóa khác nhau từ tất cả các khu vực trên thế giới. Tuyên bố được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại Paris công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 theo nghị quyết 217 A (III) của Đại hội đồng như một tiêu chuẩn chung về thành tựu cho tất cả các dân tộc và tất cả các quốc gia. Lần đầu tiên, các quyền cơ bản của con người phải được bảo vệ trên toàn thế giới. Kể từ khi được thông qua vào năm 1948, UDHR đã được dịch sang hơn 500 ngôn ngữ và đã truyền cảm hứng cho hiến pháp của nhiều Quốc gia mới độc lập và nhiều nền dân chủ mới. UDHR, cùng với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và hai Nghị định thư tùy chọn (về thủ tục khiếu nại và án tử hình) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và Nghị định thư tùy chọn của nó, tạo thành Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế.

  2. Quyền văn hóa-kinh tế- xã hội
    Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa có hiệu lực vào năm 1976. Các quyền con người mà Công ước tìm cách thúc đẩy và bảo vệ bao gồm:

  • quyền được làm việc trong những điều kiện thuận lợi và công bằng;
  • quyền được bảo trợ xã hội, có mức sống đầy đủ và các tiêu chuẩn cao nhất có thể đạt được về thể chất và tinh thần;
  • quyền được học hành và thụ hưởng các quyền lợi của tự do văn hóa và tiến bộ khoa học
  1. Quyền dân sự chính trị
    Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Nghị định thư tùy chọn đầu tiên có hiệu lực vào năm 1976. Nghị định thư tùy chọn thứ hai được thông qua vào năm 1989.

    Công ước đề cập đến các quyền như quyền tự do đi lại; sự công bằng trước pháp luật; quyền được xét xử công bằng và giả định vô tội; tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo; quyền tự do quan điểm và biểu đạt; quyền tự do hiệp hội; tham gia các công việc dân sự và bầu cử; và bảo vệ các quyền của thiểu số. Nó nghiêm cấm việc tước đoạt mạng sống một cách tùy tiện; tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo hoặc hạ nhục; nô lệ và lao động cưỡng bức; bắt giữ hoặc giam giữ tùy tiện; can thiệp tùy tiện vào quyền riêng tư; tuyên truyền chiến tranh; phân biệt; và ủng hộ sự hận thù chủng tộc hoặc tôn giáo.

  2. Các công ước Nhân quyền khác
    Một loạt các hiệp ước nhân quyền quốc tế và các công cụ khác được thông qua kể từ năm 1945 đã mở rộng cơ quan của luật nhân quyền quốc tế. Chúng bao gồm Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng (1948), Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (1965), Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1979), Công ước về Quyền trẻ em (1989) và Công ước về Quyền của Người khuyết tật (2006), cùng những Công ước khác.

Tài liệu tham khảo:
https://www.ohchr.org/en/instruments-and-mechanisms/international-human-rights-law
https://www.un.org/en/global-issues/human-rights