Skip to main content

1.7-docthem-tuyenngon-nguyentac-longkhoandung


title: Tuyên ngôn các nguyên tắc của lòng khoan dung slug: docthem-tuyenngon-nguyentac-longkhoandung sidebar_position: 14 description: Tuyên ngôn các nguyên tắc của lòng khoan dung được UNESCO thông qua năm 1995, định nghĩa lòng khoan dung và vai trò của giáo dục trong việc thúc đẩy lòng khoan dung. keywords:

  • lòng khoan dung
  • UNESCO
  • tuyên ngôn 1995
  • giáo dục khoan dung
  • đa văn hóa tags:
  • UNESCO
  • khoan dung
  • giáo dục
  • bài đọc thêm
  • nhân quyền

TUYÊN NGÔN
CÁC NGUYÊN TẮC
CỦA LÒNG KHOAN DUNG

được Đại Hội Đồng của UNESCO
thông qua tại phiên họp thứ hai mươi tám
ở Paris,
vào ngày 16 tháng 11 năm 1995

UNESCO

(Bản dịch tiếng Việt của Lê Nguyễn Duy Hậu)

SHS-96/WS-5

MỤC LỤC

Tuyên Ngôn Các Nguyên Tắc Của Lòng khoan dung

7

Văn Kiện Thi Hành Tuyên Ngôn Các Nguyên Tắc Của Lòng khoan dung

15

TUYÊN NGÔN
CÁC NGUYÊN TẮC
CỦA LÒNG KHOAN DUNG1

Các Quốc Gia Thành Viên của Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học, và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc, họp tại Paris trong phiên thứ hai mươi tám của Đại Hội Đồng, từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 16 tháng 11 năm 1995,

Lời Nói Đầu

Ghi nhớ rằng trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc có nêu: ‘Chúng tôi, nhân dân các Quốc Gia Liên Hiệp quyết tâm phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh,… khẳng định lại sự tin tưởng vào các quyền cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của con người,… và vì những mục đích trên thi hành lòng khoan dung và chung sống hòa bình trên tinh thần láng giềng thân thiện’,

Nhắc nhở rằng Lời Nói Đầu trong Hiến Chương của UNESCO, được thông qua vào ngày 16 tháng 11 năm 1945, ghi nhận rằng ‘hòa bình, để duy trì được nó, phải được đặt trên nền tảng của tình đoàn kết tri thức và đạo đức nhân loại’,

Cũng nhắc nhở rằng Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Quát khẳng định ‘Tất cả mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, và tôn giáo’ (Điều 18), ‘tự do quan điểm và biểu đạt’ (Điều 19), và rằng giáo dục ‘phải nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo’ (Điều 26),

Ghi nhận các văn kiện quốc tế liên quan bao gồm:

  • Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị,

  • Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Kinh Tế, Xã Hội, và Văn Hóa,

  • Công Ước về Xóa Bỏ Mọi Hình Thức Phân Biệt Chủng Tộc,

  • Công Ước về Ngăn Chặn và Trừng Phạt Tội Ác Diệt Chủng,

  • Công Ước về Quyền Trẻ Em,

  • Công Ước năm 1951 liên quan đến Vị Thế Của Người Tỵ Nạn và Nghị Định Thư năm 1967 và các văn kiện cấp vùng,

  • Công Ước Xóa Bỏ Mọi Hình Thức Phân Biệt Đối Xử đối với Phụ Nữ,

  • Công Ước Chống Tra Tấn và các Hình Thức khác về Đối Xử hoặc Trừng Phạt Tàn Bạo, Vô Nhân Đạo, hoặc Hạ Nhục Con Người,

  • Tuyên Ngôn về Xóa Bỏ Mọi Hình Thức Không Khoan Dung Dựa Trên Tôn Giáo hoặc Đức Tin,

  • Tuyên Ngôn về Quyền của Những Người Thuộc Các Nhóm Thiểu Số về Dân Tộc, Chủng Tộc, Tôn Giáo, và Ngôn Ngữ,

  • Tuyên Ngôn về Biện Pháp Xóa Bỏ Chủ Nghĩa Khủng Bố,

  • Tuyên bố Viên và Chương Trình Hành Động của Hội Nghị Thế Giới về Nhân Quyền,

  • Tuyên bố Copenhagen và Chương Trình Hành Động được thông qua bởi Hội Nghị Thế Giới về Phát Triển Xã hội,

  • Tuyên Ngôn của UNESCO về Chủng tộc và các Thành kiến dựa trên Chủng tộc,

  • Công Ước của UNESCO và Khuyến nghị chống Phân Biệt Đối Xử trong Giáo Dục,

    Ghi nhớ các mục tiêu của Thập kỷ thứ Ba Chống Chủ nghĩa Phân Biệt Chủng Tộc và sự Phân biệt Đối Xử dựa trên Chủng tộc, Thập kỷ Thế Giới về Giáo Dục Nhân Quyền, và Thập Kỷ Quốc Tế về Người Dân Tộc Bản Địa trên Thế Giới,

    Xem xét dựa trên những khuyến nghị của các hội nghị vùng được tổ chức trong khuôn khổ của Năm Liên Hiệp Quốc về Lòng khoan dung phù hợp với Nghị Quyết 5.14 của Đại Hội Đồng lần thứ 27, cũng như dựa trên những kết luận và khuyến nghị của các hội nghị và phiên họp khác được tổ chức giữa các Quốc Gia Thành Viên trong khuôn khổ chương trình Năm Liên Hiệp Quốc về Lòng khoan dung,

    Báo động bởi sự gia tăng của những hành vi không khoan dung, bạo lực, khủng bố, bài ngoại, chủ nghĩa dân tộc hung hãn, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bài Do Thái, sự loại bỏ, lề hóa và phân biệt đối xử chống lại những nhóm thiểu số dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, chống lại người tỵ nạn, lao động di cư, người nhập cư và các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội, cũng như bởi các hành vi bạo lực và hăm dọa chống lại những cá nhân thực thi quyền tự do quan điểm và biểu đạt – tất cả đều đang đe dọa gây bất ổn cho nền hòa bình và dân tộc, cả ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế, và là rào cản cho sự phát triển.

    Nhấn mạnh trách nhiệm của các Quốc Gia Thành Viên trong việc phát triển và cổ vũ cho việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của mọi người không phân biệt sắc tộc, giới tính, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia, tôn giáo hoặc tàn tật, và chống lại sự không khoan dung,

Thông qua và long trọng tuyên bố
Tuyên Ngôn Các Nguyên Tắc Của Lòng khoan dung

Quyết nghị thực hiện mọi biện pháp tích cực cần thiết để thúc đẩy lòng khoan dung trong các xã hội của chúng ta, bởi vì khoan dung không chỉ là một nguyên tắc được tôn vinh, mà còn vì đó là một điều kiện cần thiết cho hòa bình và cho sự phát triển kinh tế và xã hội cho mọi dân tộc,

Chúng tôi tuyên bố như sau:

Điều 1 – Ý nghĩa của lòng khoan dung

1.1 Khoan dung là sự tôn trọng, chấp nhận và nhận thức về tính đa dạng giàu có của văn hóa trên thế giới, của các hình thái biểu hiện và của lối sống. Nó được tạo dựng bởi tri thức, sự cởi mở, đối thoại và tự do tư tưởng, lương tâm và đức tin. Khoan dung là hài hòa trong khác biệt. Nó không chỉ là một bổn phận đạo đức mà còn là yêu cầu chính trị và pháp lý. Lòng khoan dung, với khả năng kiến tạo hòa bình, đóng góp cho tiến trình thay thế văn hóa chiến tranh bằng một nền văn hóa hòa bình.

1.2 Khoan dung không phải là nhượng bộ, hạ mình, hay tha tội. Trên tất cả, khoan dung chính là một thái độ tích cực phát nguồn từ việc thừa nhận các quyền con người phổ quát và các quyền tự do nền tảng của người khác. Trong mọi trường hợp, không được phép sử dụng khoan dung để biện minh cho việc vi phạm các giá trị nền tảng này. Khoan dung được thực hành bởi các cá nhân, các nhóm và các Quốc Gia.

1.3 Khoan dung là trách nhiệm gìn giữ nhân quyền, tính đa nguyên (bao gồm đa nguyên văn hóa), dân chủ và pháp quyền. Nó bao gồm cả việc khước từ chủ nghĩa giáo điều và sự chuyên chế và khẳng định các chuẩn mực được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền.

1.4 Đi đôi với bảo vệ nhân quyền, việc thực hành khoan dung không có nghĩa là khoan dung cho bất công xã hội, hoặc bỏ mặc hay coi thường niềm tin của cá nhân. Khoan dung có nghĩa là một người được tự do nâng niu niềm tin của bản thân và chấp nhận việc người khác cũng sẽ gắn bó với niềm tin của họ. Khoan dung có nghĩa là chấp nhận sự thật rằng con người một cách tự nhiên đa dạng về bề ngoài, điều kiện, ngôn luận, hành vi và giá trị, có quyền được sống trong hòa bình và được là chính mình. Khoan dung còn có nghĩa rằng không được phép áp đặt quan điểm của một người lên người khác.

Điều 2 – Cấp độ Quốc Gia

2.1 Khoan dung ở cấp độ Quốc Gia đòi hỏi sự công bằng và khách quan trong pháp luật và trong các thủ tục chấp pháp, tư pháp và hành chính. Nó cũng đòi hỏi rằng các cơ hội xã hội và kinh tế được mở rộng cho từng cá nhân một cách không phân biệt đối xử. Loại trừ và lề hóa là nguyên nhân của phẫn uất, hiếu chiến và cuồng tín.

2.2 Để dựng xây một xã hội khoan dung hơn, các Quốc Gia nên phê chuẩn các công ước quốc tế về nhân quyền đang tồn tại, và soạn thảo những đạo luật mới cần thiết để đảm bảo bình đẳng trong cách đối xử và trong cơ hội giữa các nhóm và cá nhân trong xã hội.

2.3 Việc các cá nhân, cộng đồng và quốc gia chấp nhận và tôn trọng tính đa văn hóa của gia đình nhân loại là tối quan trọng cho một thế giới hài hòa. Thiếu vắng lòng khoan dung, hòa bình không thể tồn tại và không có hòa bình thì cũng sẽ không có phát triển và dân chủ.

2.4 Sự không khoan dung có thể ở dưới dạng lề hóa và loại bỏ những nhóm yếu thế khỏi việc tham gia vào đời sống xã hội và chính trị, cũng như dưới dạng các hành vi bạo lực và phân biệt đối xử chống lại họ. Như đã được Tuyên Ngôn về Chủng tộc và các Thành kiến dựa trên Chủng tộc khẳng định, ‘Mọi cá nhân và nhóm đều có quyền khác biệt’ (Điều 1.2).

Điều 3 – Góc độ xã hội

3.1 Trong thế giới hiện đại, khoan dung đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Thời đại này được ghi dấu bởi quá trình toàn cầu hóa kinh tế và bởi việc lớn mạnh nhanh chóng của sự cơ động, truyền thông, hòa hợp và phụ thuộc lẫn nhau, cũng như các cuộc di trú lớn, việc thay thế dân số, đô thị hóa và các khuôn mẫu xã hội biến đổi. Bởi vì mọi thành phần của thế giới đều được mô tả bằng tính đa diện, cho nên việc leo thang các hành vi không khoan dung và xung đột chính là nguy cơ tiềm ẩn cho mọi khu vực. Nguy cơ này không phải của riêng quốc gia nào mà là mối đe dọa mang tính toàn cầu.

3.2 Khoan dung là cần thiết giữa các cá nhân cũng như trong phạm vi gia đình và cộng đồng. Việc thúc đẩy khoan dung và hình thành thái độ cởi mở, lắng nghe lẫn nhau và đoàn kết phải được diễn ra trong trường học và các viện đại học cũng như thông qua các môi trường giáo dục phi chính thống, tại gia đình và tại nơi làm việc. Các phương tiện truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo những tranh luận và đối thoại tự do và cởi mở, lan tỏa các giá trị khoan dung, và đánh động mối nguy hại của thái độ dửng dưng trước việc xuất hiện của các tổ chức và các hệ tư tưởng không khoan dung.

3.3 Tuyên Ngôn về Chủng tộc và các Thành kiến dựa trên Chủng tộc đã khẳng định, cần có biện pháp cần thiết để đảm bảo bình đẳng về nhân phẩm và quyền cho các cá nhân và cho các nhóm người. Do đó, cần có sự quan tâm cụ thể cho các nhóm dễ tổn thương thiệt thòi về kinh tế và xã hội nhằm cung cấp cho họ những bảo vệ pháp lý và biện pháp xã hội, đặc biệt là trong việc cung cấp nhà ở, công việc và sức khỏe, với mục đích tôn trọng sự chân thật đối với văn hóa và giá trị của các nhóm này, và thúc đẩy sự phát triển và hòa hợp kinh tế và xã hội cho họ, đặc biệt bằng cách thông qua giáo dục.

3.4 Các nghiên cứu khoa học và mở rộng giao lưu phù hợp cần được triển khai để giúp cộng đồng quốc tế phản hồi với thách thức toàn cầu này, bao gồm cả việc phân tích khoa học xã hội các lý do căn nguyên và tìm ra đối sách hiệu quả, cũng như nghiên cứu và giám sát để hỗ trợ quá trình xây dựng chính sách và nỗ lực kiến tạo chuẩn mực bởi các Quốc Gia Thành Viên.

Điều 4 – Giáo dục

4.1 Giáo dục là biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn ngừa sự không khoan dung. Bước đầu tiên trong việc giáo dục lòng khoan dung là dạy cho con người ta biết họ chia sẻ quyền và tự do nào với những người xung quanh, từ đó giúp họ biết tôn trọng những quyền và tự do này, và xây dựng ý chí bảo vệ quyền và tự do của người khác.

4.2 Giáo dục lòng khoan dung phải được coi là mệnh lệnh cấp bách; đó là lý do tại sao cần phải thúc đẩy những phương pháp giáo dục lòng khoan dung một cách hệ thống và lý trí nhằm tìm ra lời giải đáp cho những căn nguyên văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo của sự không khoan dung – đây là cội rễ của bạo lực và sự loại bỏ. Chính sách và chương trình giáo dục phải góp phần vào việc phát triển sự thấu hiểu, đoàn kết và khoan dung giữa các cá nhân cũng như giữa các nhóm sắc tộc, xã hội, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ, và giữa các quốc gia.

4.3 Giáo dục lòng khoan dung phải nhằm chống lại những ảnh hưởng dẫn đến sự sợ hãi và loại trừ lẫn nhau, và phải nhằm giúp cho giới trẻ phát huy khả năng phán đoán độc lập, tư duy phản biện và lý luận có đạo đức.

4.4 Chúng tôi cam kết ủng hộ và thực thi các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội và giáo dục lòng khoan dung, nhân quyền và bất bạo động. Điều này có nghĩa rằng chúng tôi dành sự quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo cho giáo viên, cải tiến chương trình học, nội dung sách giáo khoa và bài giảng, cũng như cải tiến những tài liệu học tập khác bao gồm các công nghệ giáo dục mới, nhằm mục đích đào tạo ra những công dân biết quan tâm và có trách nhiệm, cởi mở với các nền văn hóa khác, nhận thức được giá trị của tự do, tôn trọng phẩm giá con người và sự khác biệt, và có khả năng ngăn ngừa xung đột và giải quyết nó thông qua các biện pháp bất bạo lực.

Điều 5 – Cam kết hành động

Chúng tôi tự cam kết sẽ thúc đẩy lòng khoan dung và bất bạo lực thông qua các chương trình và thiết chế giáo dục, khoa học, văn hóa và truyền thông.

Điều 6 – Ngày Quốc Tế Của Lòng Khoan Dung

Với mục tiêu kiến tạo nhận thức cho cộng đồng, nhấn mạnh sự nguy hại của việc không khoan dung và đối ứng với các cam kết và hành động mới để ủng hộ việc truyền bá và giáo dục lòng khoan dung, chúng tôi long trọng tuyên bố ngày 16 tháng 11 hàng năm là Ngày Quốc Tế Của Lòng Khoan Dung.

VĂN KIỆN THI HÀNH

TUYÊN NGÔN CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LÒNG KHOAN DUNG

Đại Hội Đồng,

Xét rằng UNESCO, với trách nhiệm được Hiến Chương của tổ chức này giao phó trong lĩnh vực giáo dục và khoa học – tự nhiên lẫn xã hội –, văn hóa và truyền thông, phải kêu gọi sự quan tâm của các Quốc Gia và nhân dân đối với các vấn đề liên quan đến lòng khoan dung và sự không khoan dung.

Xem xét đến Tuyên Ngôn UNESCO Các Nguyên Tắc Của Lòng Khoan Dung được tuyên bố vào ngày 16 tháng 11 năm 1995,

1. Thúc giục các Quốc Gia Thành Viên:

(a) ghi nhận ngày 16 tháng 11 hàng năm là Ngày Quốc Tế Của Lòng Khoan Dung bằng việc tổ chức các sự kiện và chương trình quan trọng để lan tỏa thông điệp về lòng khoan dung cho công dân các quốc gia này, thông qua hợp tác với các thiết chế giáo dục, các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ, và truyền thông tại tất cả các vùng;

(b) đối thoại với Tổng-Giám-Đốc UNESCO về bất kỳ thông tin nào các quốc gia muốn chia sẻ, kể cả kiến thức từ nghiên cứu hoặc thảo luận công cộng về chủ đề lòng khoan dung và đa nguyên văn hóa, nhằm thúc đẩy sự thấu hiểu lẫn nhau đối với các hiện thực gắn liền với sự không khoan dung và các tư tưởng truyền bá sự không khoan dung, ví dụ như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa phát xít, và chủ nghĩa bài Do Thái, và chia sẻ các phương pháp hữu hiệu để chống lại những vấn đề kể trên;

2. Thỉnh mời Tổng-Giám-Đốc UNESCO:

(a) đảm bảo việc lan tỏa rộng rãi nhất văn kiện Tuyên Ngôn Các Nguyên Tắc này và xuất bản cũng như phân phát văn kiện này không chỉ bằng các ngôn ngữ chính thức của Đại Hội Đồng mà còn bằng càng nhiều ngôn ngữ càng tốt;

(b) xây dựng một cơ chế phù hợp để điều phối và đánh giá các chương trình hành động được triển khai để ủng hộ việc thúc đẩy và giáo dục lòng khoan dung trong hệ thống Liên Hiệp Quốc và trong việc hợp tác với các tổ chức đối tác khác;

(c) truyền đạt Tuyên Ngôn Các Nguyên Tắc này đến cho Tổng Thư Ký của Liên Hiệp Quốc cùng với đề nghị rằng ngài sẽ đệ trình thích hợp văn kiện này trong phiên họp thứ năm mươi mối của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc phù hợp với nghị quyết 49/213 của cơ quan này.

Footnotes

  1. Được tuyên bố và ký kết vào ngày 16 tháng 11 năm 1995.