Skip to main content

Bài đọc có 2174 từ

Bài đọc : Nhân quyền là gì?

Trong suốt lịch sử loài người, các xã hội đã hình thành và phát triển các hệ thống để đảm bảo sự gắn kết xã hội bằng cách hệ thống hóa các quyền và trách nhiệm của người dân. Nhưng phải đến năm 1948 thì cộng đồng quốc tế mới thống nhất với nhau về một thỏa ước về quyền sẽ ràng buộc tất cả các quốc gia, đây chính là Tuyên Ngôn Phổ Quát Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR). Bản tuyên ngôn này liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng để sống như một con người mà không phân biệt chủng tộc, quốc tịch, giới tính, màu da, tôn giáo.

Nhân quyền là một sáng tạo của con người, cũng như nhà nước, tòa án,... sau nhiều trăm năm trải qua những bất công khi nhân tính bị lạm dụng hoặc từ chối. Những quyền này phản ánh những nhu cầu cơ bản của con người; thiết lập các tiêu chuẩn cơ bản mà không có chúng con người không thể sống trong phẩm giá. Quyền con người đưa ra ý tưởng về công lý trong trật tự tự nhiên của thế giới, nó mang lại bình đẳng, nhân phẩm, tôn trọng, tự do và công lý.

1. Khái niệm

Kể từ khi xuất hiện văn kiện quốc tế đầu tiên về Nhân quyền, đã có rất nhiều định nghĩa về “nhân quyền” được nêu ra với nhiều ý nghĩa và cách hiểu. Có khoảng 50 định nghĩa khác nhau về “nhân quyền” được giới học giả và các nhà nghiên cứu nêu ra. Không có một định nghĩa nào là hoàn toàn hay tuyệt đối đúng đối với “nhân quyền”, nhưng một trong các định nghĩa được chấp nhận rộng rãi là định nghĩa sau đây của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân Quyền: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm khỏi các hành động và những hành vi bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những điều được phép làm và tự do căn bản của con người” (OHCHR, 2006)

Mỗi định nghĩa sẽ nhấn mạnh những khía cạnh và tính chất khác nhau của quyền con người. Tuy vậy, hầu hết các định nghĩa về quyền con người đều đưa ra những điểm chung: đó là các quyền của con người, và nó mang tính phổ quát cho tất cả mọi người.

Định nghĩa sau đây được đề cập trong cuốn Sổ tay Nhân quyền biên soạn bởi Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về nhân quyền cùng với Liên minh Nghị viện thế giới: “Nhân quyền là những quyền mà mỗi người có được nhờ phẩm giá con người của mình. Nhân quyền là những quyền vốn có cho tất cả mọi người. Nó định nghĩa mối quan hệ giữa cá nhân và cấu trúc quyền lực, đặc biệt là nhà nước. Nhân quyền giới hạn quyền lực nhà nước, đồng thời đòi hỏi nhà nước phải có các biện pháp tích cực nhằm đảm bảo một môi trường cho phép tất cả mọi người thụ hưởng quyền con người của mình.” (Inter-Parliamentary Union, 2016)

Ở Việt Nam, khi đề cập tới nhân quyền, người ta thường sử dụng song song hai thuật ngữ “nhân quyền” và “quyền con người”. Về bản chất, hai thuật ngữ này không khác nhau, cả hai đều là thuật ngữ tiếng Việt được dịch từ “human rights” trong tiếng Anh. “Quyền con người” là cách dịch thuần Việt và “Nhân quyền” là cách dịch theo từ Hán-Việt. Trong phạm vi khóa học, chúng ta sẽ sử dụng cả hai thuật ngữ này.

Tóm lại, nhân quyền hay quyền con người đều có thể hiểu là: Những quyền vốn có của mỗi con người. Là quyền của tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, màu da, tuổi tác hay bất kỳ đặc điểm phân biệt nào khác.

2. Các giá trị cốt lõi

Hai trong số các giá trị cốt lõi cốt lõi của ý tưởng về quyền con người là nhân phẩm và bình đẳng. Quyền con người có thể được hiểu là xác lập những tiêu chuẩn cơ bản cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá; và tính phổ quát của quyền con người là do tất cả mọi người đều bình đẳng.

Hai giá trị này thực sự là tất cả những gì cần có để áp dụng cho ý tưởng về quyền con người, chúng hầu như không gây tranh cãi. Đó là lý do tại sao nhân quyền nhận được sự ủng hộ từ mọi nền văn hóa trên thế giới, mọi chính phủ văn minh và mọi tôn giáo lớn.

Hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng quyền lực nhà nước không thể là vô hạn hoặc độc đoán; nó cần được giới hạn ít nhất ở mức độ mà tất cả các cá nhân trong phạm vi quyền hạn của nó có thể sống với những yêu cầu tối thiểu nhất định đối với phẩm giá con người.

Ngoài hai giá trị cốt lõi đã đề cập ở trên, nhiều giá trị khác có thể bắt nguồn từ hai giá trị cơ bản này và có thể giúp xác định rõ hơn cách thức con người và các xã hội nên cùng tồn tại trong thực tế. Tiêu biểu là:

  • Tự do
  • Tôn trọng người khác
  • Không phân biệt đối xử
  • Khoan dung
  • Công lý
  • Trách nhiệm

3. Các đặc tính của nhân quyền

Tính phổ quát

Nhân quyền cho tất cả mọi người. Chỉ cần bạn sinh ra là con người thì bạn có nhân quyền, không phân biệt nơi bạn sinh ra, không phân biệt giới tính và bản dạng của bạn, không phân biệt màu da, chủng tộc, tuổi tác và tất cả các yếu tố khác. Bạn không cần phải bỏ tiền ra hay thuê lại của ai đó để có nhân quyền.

Ví dụ, bạn không thể lấy lý do tuổi tác để cho rằng những người nhỏ tuổi hơn trong gia đình không có quyền lựa chọn nơi làm việc của họ. Hay bạn cũng không thể lấy lý do bạn là nam giới thì bạn được quyền đi chơi khuya còn những người có giới tính hay bản dạng giới khác thì không có quyền ấy.

Tính không thể phân chia

Tất cả các quyền con người đều quan trọng như nhau, không có quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Cũng chính vì vậy, bạn không thể bị tước đoạt một quyền nào đó chỉ vì cá nhân, tổ chức nào đó cho rằng quyền đó không quan trọng hoặc không cần thiết.

Ví dụ: Một nhà nước không thể nói với công dân của mình rằng họ đã được lo đầy đủ về cơm ăn, áo mặc, được kinh doanh tự do nên người dân không cần quyền tự do ngôn luận nữa, hãy lo mà làm ăn. Hay ở phạm vi gia đình, phụ huynh không thể ngăn cản quyền tham gia vào các hoạt động văn hóa, nghệ thuật của con cái với lý do con cái đã có quyền học tập và chỉ cần lo học cho tốt là đủ.

Tính không thể bị tước bỏ

Các quyền con người không thể bị tước bỏ và mất đi. Trong một số trường hợp nhà nước có thể hạn chế một số quyền nhất định. Tuy vậy, việc hạn chế một quyền phải trải qua một quy trình chặt chẽ, có tính minh bạch và chỉ được thực hiện trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ như trong trường hợp xảy ra dịch bệnh có khả năng lây từ người sang người gây ra bởi một loại virus như COVID-19, việc hạn chế quyền tự do đi lại có thể được các chính phủ áp đặt nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Trong các bài sau, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về các trường hợp nhà nước được phép hạn chế các quyền con người.

Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau

Các quyền con người có tính liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Việc thực hiện và bảo đảm một quyền sẽ ảnh hưởng tích cực đối với việc thực thi và bảo đảm các quyền khác. Và ngược lại, nếu một quyền bị vi phạm và hạn chế thì các quyền khác cũng có thể bị vi phạm theo.

Ví dụ, quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp nếu bị hạn chế có thể sẽ khiến các ứng cử viên tham gia vào một cuộc bầu cử không thể tổ chức các buổi tiếp xúc với người ủng hộ, đồng thời ứng cử viên đó cũng sẽ gặp khó khăn trong việc truyền đạt các ý tưởng của mình đến với người bầu. Vì vậy, việc thực hiện quyền bầu cử của người dân sẽ mất đi tính thực chất khi họ không có cơ hội hiểu và biết thêm về các ứng cử viên trong bối cảnh hai quyền vừa nêu bị hạn chế.

3. Tại sao chúng ta cần học về nhân quyền?

Từ hàng ngàn năm trước, khi chế độ nô lệ vẫn tồn tại, cho tới các cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX, và thậm chí cho tới ngày nay, loài người vẫn không tránh khỏi những khổ đau từ việc bị xâm hại các quyền cơ bản của mình. Đó không nhất thiết phải là nạn nhân của một vụ giết người, không nhất thiết phải là một người biểu tình ôn hòa bị bắt giam hay một chính trị gia đối lập bị trục xuất. Đó có thể là con bạn, em bạn, cha mẹ bạn hay bất kỳ một người nào mà bạn biết. Những xâm phạm về quyền tự do vẫn diễn ra trong đời sống hàng ngày, từ một cái “nựng má” bé gái trong thang máy, một cô gái bị trêu chọc về bộ quần áo bó sát của mình, một chàng trai không xin được việc vì bị kỳ thị bởi xu hướng tính dục, một sinh viên bị quỵt lương sau khi làm 12 tiếng một ngày hay rất nhiều những sự việc khác diễn ra mà chúng ta không hay biết đó là sự xâm phạm quyền tự do của người khác. Trong một số trường hợp, chúng ta không hay biết mình đã trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ những hành vi ấy và để lại những thương tổn về thể xác lẫn tinh thần trong mỗi nạn nhân mà chúng ta lãng quên. Vì vậy, việc học và hiểu biết về nhân quyền sẽ giúp mỗi cá nhân hiểu được quyền của chính mình và quyền của mỗi người. Từ đó, chúng ta mới có nền tảng đầu tiên để hành động khi quyền của mình bị xâm phạm và lên tiếng khi ta biết điều gì có thể xâm phạm quyền của người khác. Với nền tảng ấy, chúng ta có thể sống hòa hợp với những người xung quanh, đồng thời tiến thêm một bước để bảo vệ cộng đồng mà mình đang sống trong đó.

Việc học nhân quyền cũng sẽ giúp mỗi người hiểu được vai trò của mỗi cá nhân, tổ chức, vai trò của nhà nước, và các thiết chế xã hội khác trong việc bảo vệ và bảo đảm nhân quyền. Với hiểu biết ấy, chúng ta có thể hiểu được rằng khi nào thì một người hay một tổ chức hay một nhà nước đang làm không tốt vai trò của mình, và chúng ta cũng biết được bản thân có thể và nên làm gì tiếp theo để góp phần gìn giữ và bảo vệ các quyền con người.

4. Tổng kết

Nhân quyền được hiểu chung là những quyền vốn có của con người.

Nhân quyền dành cho tất cả mọi người, không chia tách, phụ thuộc lẫn nhau, không thể chuyển nhượng.

Học nhân quyền là để biết quyền của mình và người khác. Từ đó có ý thức bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác, đồng thời ngăn mình không xâm phạm quyền của người khác. Học về nhân quyền sẽ giúp người học biết vai trò của mỗi cá nhân, cộng đồng và nhà nước trong việc bảo vệ và bảo đảm nhân quyền. Từ đó mỗi người sẽ có lựa chọn tham gia hành động để chung tay bảo vệ nhân quyền.

Tài liệu tham khảo

1. OHCHR, Frequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, p1.

2. Inter-Parliamentary Union, Human Rights, 2016, Handbook for Parliamentarians N° 26,p19

3*. “The History of Human Right“, Julian Hermida.*