Skip to main content

Bài đọc: Lược sử nhân quyền

Bài đọc có 2340 từ

Lược sử nhân quyền thế giới

Ý tưởng cho rằng tất cả mọi người đều có một số quyền chỉ vì họ là con người là một ý tưởng tương đối mới. Có một thời, mọi người tin rằng các vị vua, hoặc những người cai trị là các vị thần. Họ có toàn quyền đối với thần dân và có thể làm với họ những gì họ thích. Họ thậm chí có thể ra lệnh cho mọi người tôn thờ họ. Không chỉ là những vị vua đứng trên luật pháp, họ còn là luật pháp và có thể thay đổi luật pháp theo ý muốn của mình. Ngay từ năm 1215, vua Anh, John, đã đồng ý với một sự thay đổi lớn trong cách cai trị của mình. Điều này xảy ra bởi vì một nhóm nam tước là chủ đất lớn đã chán ngấy cách vua John thực thi quyền lực một cách độc đoán đối với tài sản và cuộc sống của họ. Họ đã lập ra một danh sách các yêu cầu và trong số này có các quyền không bị giam giữ, bỏ tù hoặc đày ải bất công hoặc bất hợp pháp. Tài liệu này có tên là Magna Carta.

Magna Carta thiết lập một nguyên tắc rất quan trọng được gọi là pháp quyền (rule of law). Nguyên tắc này nói rằng không ai, kể cả vua, đứng trên luật pháp. Đó là sự khởi đầu của ý tưởng rằng những người cai trị có một số trách nhiệm đối với những người mà họ cai trị. Mặc dù tài liệu này là một cột mốc rất quan trọng trong sự phát triển của quyền con người, nhưng nó còn có nhiều hạn chế. Magna Carta chỉ trao quyền cho các nam tước và không giúp ích gì cho những thường dân.

Mãi cho đến thời kỳ Khai Sáng những năm 1700, mọi người mới bắt đầu bức xúc đòi quyền lợi cho cá nhân. Năm 1776, người dân các thuộc địa Hoa Kỳ nổi dậy chống lại nhà vua Anh, người đã từ chối quyền đại diện của họ trong Hạ viện và đánh thuế các mặt hàng xa xỉ. Trong Tuyên ngôn Độc lập của mình, nhân dân Mỹ đã tham chiến trên cơ sở học thuyết nhân quyền. Những lời nổi tiếng của Tuyên ngôn Độc lập là : “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo cho những quyền này, chính phủ đã được lập ra từ trong nhân dân và có được quyền lực chính đáng là do có sự ưng thuận của nhân dân.”

Năm 1789, ngay sau Cách mạng Hoa Kỳ, người Pháp nổi dậy chống lại chế độ chuyên chế của Vua Louis XVI. Những người nổi dậy buộc nhà vua phải ký Tuyên ngôn về Quyền của Con người. Tuyên bố này đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và các quyền cơ bản về tự do, tài sản, bình đẳng và an ninh. Thật không may, chính phủ mới đã không tuân theo tuyên bố này. Nhà vua và hàng ngàn công dân Pháp khác đã bị giết bằng máy chém. Phải mất nhiều năm thì tiếng hô xung trận của cuộc cách mạng, “tự do, bình đẳng, bác ái” mới trở thành hiện thực.

Trong 150 năm tiếp theo, nhiều quốc gia đã thông qua luật nhân quyền. Trong thời kỳ này, chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ. Phụ nữ có nhiều quyền, bao gồm quyền sở hữu tài sản và quyền bầu cử.

Bước tiếp theo trong quá trình phát triển nhân quyền đã diễn ra ở cấp độ toàn cầu. Thật không may, nó đã dẫn đến thiệt hại của hàng triệu sinh mạng. Vào cuối Thế chiến thứ hai, năm 1945, thảm họa Holocaust đã gây chấn động và kinh hoàng cho người dân trên toàn thế giới. Chính phủ Quốc xã đã giết hại sáu triệu người bao gồm cả người lớn và trẻ em một cách có hệ thống, chỉ vì họ là người Do Thái. Nhiều người khác đã bị giết vì họ là người đồng tính luyến ái, bị tra tấn về thể chất hoặc tinh thần hoặc vì họ phản đối Đức Quốc xã. Những người này được đưa khỏi nhà của họ và vận chuyển trên các chuyến tàu chở gia súc đến các trại tập trung. Họ bị bỏ đói, bị tra tấn, bị sử dụng trong các thí nghiệm y tế và bị giết trong phòng hơi ngạt.

Để đối phó với thảm họa nhân tai này, 45 quốc gia đã thành lập một tổ chức quốc tế cam kết thúc đẩy "sự tôn trọng và tuân thủ phổ biến các quyền con người và các quyền tự do cơ bản." Tổ chức đó là Liên hợp quốc. Nó được thành lập vào năm 1945. Hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều là thành viên của Liên hợp quốc.

Vào năm 1946 Liên Hợp Quốc thành lập Ủy Ban Nhân Quyền để chuẩn bị cho một Dự Luật Nhân Quyền quốc tế. Ủy Ban Nhân Quyền đã soạn thảo bản Tuyên Ngôn Phổ Quát về Nhân Quyền. Tuyên bố này được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc bỏ phiếu thông qua với tỷ lệ 48/58 phiếu ủng hộ. Các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đã cam kết cùng nhau thúc đẩy 30 quyền được quy định trong bản tuyên ngôn này. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, các quyền con người được thống nhất trong một văn kiện duy nhất và có giá trị toàn cầu.

Sau văn kiện quan trọng này, nhiều quốc gia sau đó đã đưa vào hiến pháp nhiều quyền con người dưới các hình thức khác nhau. Nhiều quốc gia thậm chí có các cơ quan bảo vệ nhân quyền, ví dụ như Ủy Ban Nhân Quyền của Philippines.

Lược sử nhân quyền Việt Nam

Thời kỳ sơ khai và phong kiến

Trong lịch sử Việt Nam, các ý niệm về các khía cạnh khác nhau của quyền con người đã xuất hiện khá sớm. Điều này được thể hiện qua các câu ca dao tục ngữ được lưu truyền từ nhiều đời, ví dụ như “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “thương người như thể thương thân” để thể hiện suy nghĩ về lòng nhân ái, sự yêu thương giữa con người với con người.

Ở cấp độ cộng đồng, việc hình thành nên các tục lệ, hương ước ở các làng xã cũng thể hiện quyền tự do dân chủ và quyền tham gia vào đời sống công của người dân.

Ở cấp độ quản trị quốc gia, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “trị quốc, an dân” cũng được các triều đại sử dụng không chỉ trong các cuộc kháng chiến, mà còn trong việc cai trị hàng ngày. Có thể kể đến việc triệu tập hội nghị Diên Hồng bàn về việc kháng chiến, hoãn sưu thuế dưới thời Trần hay việc đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh nhà Minh thời kỳ đầu xây dựng nhà Hậu Lê.

Bên cạnh đó, các ý niệm về quyền con người cũng xuất hiện trong các bộ luật cổ của Việt Nam ở thời phong kiến, tiêu biểu là bộ Hình thư thời Lý, Bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê hay Hoàng triều Luật lệ đời nhà Nguyễn. Một ví dụ tiêu biểu là việc không quy định án tử hình trong bộ Hình thư là một quy định có tầm nhìn cho tới hiện tại. Với Bộ luật Hồng Đức, bên cạnh các quy định về quyền tài sản, cấm giết người, buôn bán nô lệ, các quy định về quyền phụ nữ như quyền ly hôn, quyền thừa kế tài sản cũng là những tiến bộ mới về nhân quyền so với các thời kỳ trước.

Đến thời Pháp thuộc

Thời kỳ Pháp thuộc là thời kỳ mà các tư tưởng mới về nhân quyền được du nhập vào nước ta qua sách báo và qua các hoạt động của các hội nhóm cách mạng, các hội nhân sĩ, trí thức.

Tiêu biểu có thể kể đến Hội Nhân Quyền Pháp chi nhánh Hà Nội với các hoạt động vận động tha bổng cho Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và một số chí sĩ yêu nước khác. Cũng như có các hoạt động truyền bá nhân quyền. Một trong các nỗ lực ấy là cuốn sách Nhân quyền của Phạm Huy Lục được xuất bản năm 1935.

Các tờ báo như tờ Ngày nay, Sài Thành ở thời điểm đó đã có các bài báo đưa các kiến thức về nhân quyền, quyền tự do lập hội, hội họp và các quyền khác. Nhìn chung ở thời kỳ này, các quyền tự do báo chí, hội họp, lập hội vẫn được thực hành ở Việt Nam ở một mức độ hạn chế.

Các chí sĩ yêu nước như Phan Chu Trinh cũng tích cực truyền bá các tư tưởng về nhân quyền và dân quyền qua phong trào Duy Tân với các hoạt động giáo dục, diễn thuyết. Không chỉ vậy, các phong trào như phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ cũng là một ví dụ về việc thực hành nhân quyền một cách bất bạo động của nhân dân ta thời kỳ ấy.

Năm 1919, bản yêu sách của nhân dân An Nam là một trong những nỗ lực của nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn Tất Thành trong việc vận động cho các quyền tự do căn bản của người An Nam. Các chí sĩ cùng lấy chung chữ ký là Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra các yêu cầu về các quyền tự do báo chí, ngôn luận, hội họp, lập hội và học tập trong bản yêu sách của mình.

Từ năm 1945 – nay

Năm 1945, với sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các văn kiện quan trọng đã ra đời đánh dấu sự khẳng định và ghi nhận các quyền con người của người Việt Nam với tư cách là người dân của một quốc gia độc lập. Đặc biệt là tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp 1946. Bản tuyên ngôn độc lập được đọc vào ngày 2/9/1945 đã lấy cảm hứng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền trong cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 và Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ với câu dẫn nổi tiếng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”

Năm 1954, sau hiệp định Geneve, ở hai miền có hai chính thể khác nhau xuất hiện. Ở miền Bắc là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ở miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa. Các điều khoản về nhân quyền đều xuất hiện trong Hiến pháp của cả hai chính thể.

Trong thời kỳ chiến tranh, bên cạnh các tội ác chiến tranh, các vi phạm nhân quyền vẫn diễn ra ở cả hai miền. Có thể kể đến một số sự kiện liên quan tiêu biểu như Nhân Văn Giai Phẩm, Cải cách ruộng đất ở miền Bắc hay biến cố Phật giáo ở Miền Nam.

Sau khi chiến tranh kết thúc, và hai miền thống nhất, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời năm 1976. Những vấn đề nhân quyền nổi bật ở nước Việt Nam sau thống nhất là quyền tự do kinh doanh, quyền tư hữu, vấn đề trại cải tạo và thuyền nhân. Cũng trong thời gian này, Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1977 và ký kết tham gia 7 trong số 9 công ước quốc tế về nhân quyền.

Cho tới Hiến pháp năm 2013, quyền con người đã được chính thức đề cập trong một chương riêng của Hiến pháp là Chương II.

Chúng tôi khuyến khích bạn đọc Hiến pháp 2013 để xem Hiến pháp của Việt Nam hiện tại đang quy định gì về nhân quyền.

Mặc dù đã được ghi nhận trong hiến pháp, nhưng nhân quyền vẫn là một vấn đề được các cá nhân, tổ chức, hội nhóm ở Việt Nam tiếp tục nỗ lực thúc đẩy bằng nhiều phương thức khác nhau. Từ các hoạt động giáo dục về nhân quyền, các hoạt động giám sát, báo cáo về nhân quyền cho tới các phong trào rộng lớn hơn để đòi bảo vệ các quyền cụ thể. Ví dụ như phong trào bảo vệ cây xanh năm 2015, Formosa 2016, Luật An ninh mạng năm 2018, hay các phong trào về quyền LGBT, quyền phụ nữ những năm gần đây.

Trong tuần cuối cùng của chương trình, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các cách thức bảo vệ nhân quyền và các công việc nhân quyền thường gặp.

Tài liệu tham khảo

  1. The History of Human Right“, Julian Hermida.

  2. Bài viết về nhân quyền trên tờ Ngày nay, số 168 ra ngày 1/7/1939

  3. Nhơn quyền triết lý luận, Sài Thành, số 58 ra ngày 11/5/1932

  4. Điểm sách: Nhân quyền (1935) - Phạm Huy Lục

  5. Phan Châu Trinh đã cổ xúy dân quyền như thế nào

  6. Hiến pháp 2013

  7. Giáo trình Lý luận pháp luật về quyền con người - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

  8. Các công ước Nhân quyền mà Việt Nam đang tham gia