Các quyền dân sự, chính trị
Bài đọc có 2860 từ
Sau chiến tranh thế giới thứ hai và sự ra đời của Liên Hợp Quốc năm 1948, bản Tuyên ngôn nhân quyền phổ quát chính thức ra đời, đánh dấu lần đầu tiên các quyền con người được ghi nhận trên toàn cầu. Sau đó, vào năm 1966, Liên Hợp Quốc cho ra đời hai công ước nhân quyền đầu tiên đại diện cho hai nhóm quyền lớn: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) mà chúng ta tìm hiểu trong bài 1.2 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong bài này.
Bài đọc này lần lượt trình bày ba nội dung sau:
(1) Giới thiệu các quyền dân sự chính trị và công ước ICCPR
(2) Nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước với việc thực hiện các quyền này
(3) Cơ chế thực thi của công ước ICCPR và tác động trên thực tế
Phần đầu giới thiệu về công ước sẽ giúp người đọc hiểu về các quyền dân sự và chính trị mà mình đương nhiên có, vì Việt Nam và nhiều quốc gia đã tham gia công ước và thừa nhận các quyền này là chuẩn mực, thậm chí đưa vào Hiến pháp.
Phần 2 sẽ nêu rõ hơn về trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước ứng xử với những quyền dân sự, chính trị của người dân trình bày ở Phần 1, qua đó người đọc hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Ở Phần 3, bài viết trình bày về tác động của công ước ICCPR đối với ứng xử về các quyền dân sự chính trị thực tế của các quốc gia để người đọc có cái nhìn thực tế hơn về công ước, đồng thời biết thêm về những yếu tố khác có tác động tới việc thực thi các quyền của nhà nước.
-
Giới thiệu về các quyền dân sự, chính trị và công ước ICCPR
Công ước ICCPR quy định về quyền tự quyết dân tộc và các nghĩa vụ của nhà nước và nguyên tắc thực hiện công ước từ Điều 1-5. Từ điều 6 đến 27 công ước quy định về các quyền dân sự, chính trị. Điều 28 đến Điều 45 của công ước quy định về Ủy ban nhân quyền và bộ máy thực thi công ước. Hai điều 46, 47 ở cuối quy định về việc giải thích công ước không làm phương hại đến Hiến chương Liên Hợp Quốc và quyền của các dân tộc trong việc quyết định về tài nguyên của mình.
Sau đây là tóm tắt các quyền dân sự và chính trị được đề cập trong công ước. Nhiều điều khoản trong danh sách này đã được đề cập trong hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia.
Nhóm các quyền dân sự:
- Điều 6: Quyền được sống và không bị tước đoạt mạng sống một cách tùy tiện. Điều 6 cũng bao gồm quyền xin giảm án tử hình và không áp dụng án tử hình với người dưới 18 tuổi hay người mang thai. Điều 6 cũng thu hẹp phạm vi áp dụng án tử hình và thúc đẩy việc xóa bỏ loại hình này;
- Điều 7: Quyền không bị tra tấn. Quyền này bao gồm cả việc không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo, hạ thấp nhân phẩm;
- Điều 8: Quyền tự do không bị buộc làm nô lệ, nô dịch. Điều 8 bao gồm cả việc cấm các hình thức lao động cưỡng bức;
- Điều 9: Quyền tự do và an toàn cá nhân, có tác giả gọi là quyền không bị bắt hoặc giam giữ tùy tiện. Người bị tạm giam, tạm giữ vì tội hình sự thì phải được thông báo về lý do và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Nếu bị bắt hoặc giam giữ bất hợp pháp thì người đó có quyền đòi bồi thường;
- Điều 10: Quyền được đối xử nhân đạo của người bị tước tự do. Người bị tạm giam phải được giam theo quy chế riêng, không giam chung với người đã có án. Người chưa thành niên phải được giam tách riêng khỏi người lớn, được đối xử phù hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý;
- Điều 11: Không ai bị bỏ tù chỉ vì lý do không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng1;
- Điều 12: Quyền tự do đi lại và cư trú. Mọi người có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nước nào và không bị tùy tiện ngăn cấm trở về nước mình;
- Điều 13: Quyền về thủ tục khi bị trục xuất. Người nước ngoài bị trục xuất có quyền yêu cầu xem xét lại quyết định và có đại diện bảo vệ;
- Điều 14: Quyền về xét xử công bằng. Bao gồm cả quyền được trợ giúp pháp lý, chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa, quyền yêu cầu xem xét lại bản án, quyền yêu cầu bồi thường khi bị xử oan;
- Điều 15: Cấm áp dụng hiệu lực hồi tố trong luật hình sự, ưu tiên áp dụng hình phạt nhẹ hơn với cùng một hành vi phạm tội khi có thay đổi luật pháp.
- Điều 16: Quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật2;
- Điều 17: Quyền bảo vệ sự riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín và quyền không bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín;
- Điều 18: Quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo;
- Điều 19: Quyền tự do biểu đạt, quyền tự do ngôn luận, quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin;
- Điều 23: Bảo vệ gia đình, thừa nhận quyền kết hôn, bình đẳng trong và sau hôn nhân, cấm hôn nhân cưỡng bức;
- Điều 24: Bảo vệ trẻ em, quyền đăng ký khai sinh và quyền có quốc tịch.
Nhóm các quyền chính trị:
- Điều 21: Quyền tự do hội họp;
- Điều 22: Quyền tự do lập hội, thành lập và gia nhập công đoàn;
- Điều 25: Quyền tham gia chính trị, bao gồm việc tham gia điều hành các công việc xã hội, bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử tự do và thực chất, tiếp cận bình đẳng dịch vụ công.
-
Nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước với thực hiện quyền
Khi là thành viên của công ước ICCPR, quốc gia thành viên công ước chính thức cam kết những điều sau3:
- Tôn trọng và bảo đảm các quyền dân sự chính trị được ghi nhận trong công ước;
- Tiến hành các bước cần thiết để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền trong công ước;
- Bảo đảm người bị xâm phạm các quyền nhận được các biện pháp khắc phục, kể cả khi bị xâm phạm bởi hành vi của người thừa hành công vụ;
- Bảo đảm các cơ quan tư pháp, hành pháp, lập pháp xem xét yêu cầu khắc phục của người có yêu cầu;
- Bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền thi hành các biện pháp khắc phục được đề ra.
Nhà nước chủ yếu cần giữ thái độ thụ động, kiềm chế và không can thiệp vào việc hưởng thụ các quyền dân sự, chính trị của người dân. Tuy nhiên, nhà nước vẫn cần thực hiện một số nghĩa vụ chủ động để đảm bảo hiện thực hóa các quyền này. Ví dụ như việc ban hành các quy định, thiết lập các cơ chế để giám sát, quản lý trại giam hiệu quả, thực hiện việc giáo dục, tuyên truyền nhằm phòng chống các hành vi tra tấn xảy ra. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần đảm bảo các nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử trong việc thực thi các quyền nêu trong công ước4.
Tuy nhiên, nhà nước cũng có quyền đặt ra giới hạn áp dụng với một số quyền dân sự chính trị5 vì một số lý do được liệt kê sau đây:
- Để bảo vệ an ninh quốc gia;
- Để đảm bảo an toàn cho cộng đồng;
- Để bảo vệ sức khỏe hay đạo đức của cộng đồng;
- Để bảo vệ các quyền, tự do hợp pháp của người khác;
- Để đảm bảo lợi ích của công lý hoặc đời sống riêng của các bên trong phiên tòa.
Bên cạnh đặt giới hạn, theo Điều 4 của Công ước ICCPR, nhà nước có thể thoái lui nghĩa vụ thực hiện quyền trong một số trường hợp khẩn cấp đe dọa sự sống còn của đất nước. Khi thoái lui nghĩa vụ, nhà nước có thể sử dụng một số biện pháp để tạm đình chỉ nghĩa vụ với một số quyền, ví dụ như: thiết quân luật; cấm biểu tình, hội họp đông người; cấm hoặc hạn chế hoạt động của một số cơ quan thông tin đại chúng; cấm đi lại, xuất nhập cảnh.
Mặc dù vậy, việc áp dụng các biện pháp thoái lui nghĩa vụ thực hiện quyền trong trường hợp khẩn cấp cần phải tuân thủ những yêu cầu sau đây:
- Các biện pháp thực sự xuất phát từ hình huống khẩn cấp, bắt buộc phải làm để cứu vãn sự sống còn quốc gia;
- Các biện pháp không được trái với nghĩa vụ khác của luật pháp quốc tế, không được phân biệt đối xử;
- Các biện pháp không được tạm đình chỉ một số quyền6 như quyền sống, quyền không bị bắt giữ làm nô lệ;
- Phải thông báo cho các quốc gia thành viên khác của ICCPR thông qua Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, trong đó nêu rõ biện pháp và thời hạn áp dụng.
Để giúp xác định rõ hơn tính hợp lý của việc áp dụng giới hạn quyền và các biện pháp thoái lui nghĩa vụ trong bối cảnh khẩn cấp, các chuyên gia, học giả về nhân quyền đã soạn thảo nên một bộ nguyên tắc mà sau này được dùng làm văn kiện chính thức của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc có tên là “Các nguyên tắc Siracusa về các điều khoản giới hạn và tạm đình chỉ trong ICCPR” được thông qua tại một hội nghị tư vấn ở thành phố Siracusa (Italy) năm 1984.
-
Việc thực thi Công ước ICCPR và tác động trên thực tế
Các quyền dân sự, chính trị được đề cập ở trong phần I của bài đọc không phải là những quyền xa lạ với nhiều người. Thực tế là các quyền này đã được thể hiện ít nhiều trong pháp luật các quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Tuy nhiên, không phải nước nào cũng đạt được tiến bộ trong việc bảo vệ các quyền dân sự, chính trị ở cả mặt lập pháp và thực thi, dù đây là điều mà các nước thành viên đã cam kết như đã trình bày trong phần 2. Phần này sẽ giúp người đọc có thêm góc nhìn về hiệu lực của Công ước ICCPR với các tiến bộ nhân quyền trên thực tế.
Là một công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc, ICCPR không giống một văn bản pháp luật quốc gia mà một nhà nước có thể dùng lực lượng chấp pháp để bắt buộc người dân tuân thủ. ICCPR được thực thi không phải bằng một sức mạnh vũ lực có tính cưỡng chế, về mặt pháp lý, nó được thực thi chủ yếu bởi sự tự nguyện của các quốc gia thành viên.
Để thúc đẩy việc thực thi công ước, ICCPR đặt ra một cơ quan gồm 18 chuyên gia, gọi là Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (United Nations Human Rights Council, viết tắt là UN HRC). Ủy ban thực hiện công việc của mình qua một số cơ chế:
- Cơ chế báo cáo: Các quốc gia nộp báo cáo định kỳ cho Ủy ban trình bày những điều đã làm được nhằm thực thi các quyền trong công ước và các tiến bộ đạt được. Dù nhiều quốc gia nghiêm túc với cơ chế này, nhưng vẫn có một số nước nợ báo cáo thường xuyên. Bên cạnh đó, các báo cáo thường sẽ phóng đại thành tựu và trích dẫn các điều khoản Hiến pháp một cách vô nghĩa. Mặc dù vậy, cơ chế này đi kèm với các phiên chất vấn của Ủy ban, hoạt động được cho là có ý nghĩa và tính thực chất nhất định giúp các quốc gia kiểm điểm tình hình nhân quyền của mình.
- Cơ chế khiếu nại giữa các quốc gia: Là cơ chế cho phép một quốc gia khiếu nại về hành vi vi phạm nhân quyền của một quốc gia khác với Ủy ban. Tuy nhiên, điểm yếu của cơ chế này là cả quốc gia khiếu nại và quốc gia bị khiếu nại đều phải tuyên bố thừa nhận quyền tài phán của Ủy ban nhân quyền, một điều gần như bất khả thi. Thực tế, cơ chế này gần như không được các quốc gia sử dụng tới.
- Cơ chế khiếu nại cá nhân: là cơ chế cho phép một cá nhân gửi khiếu nại trực tiếp tới Ủy ban về việc vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên cơ chế này chỉ áp dụng với những quốc gia tham gia Nghị định thư bổ sung thứ nhất của Công ước ICCPR, một văn kiện mà nhiều quốc gia vẫn chưa tham gia, bao gồm Việt Nam.
Nhìn chung, các học giả đánh giá các cơ chế thực thi ICCPR với con mắt bi quan, vì nó ít có quyền lực và dựa nhiều vào sự tự nguyện của các quốc gia. Ở chiều ngược lại, nhiều chuyên gia cho rằng ICCPR đã đặt ra chuẩn mực quốc tế về nhân quyền đã được hầu hết các quốc gia thừa nhận ít nhất là về mặt hình thức. Bên cạnh đó, cơ chế thực thi của ICCPR cũng có tác dụng khai thác thông tin từ các quốc gia về chính sách nhân quyền và có khả năng hướng sự chú ý của thế giới vào các vi phạm nhân quyền.
Để xem xét tác động thực tế của công ước ICCPR lên tình hình nhân quyền trên thực tế của các quốc gia, Linda Keith (1999) đã dựa trên số liệu của 178 quốc gia trong 18 năm (1976-1993) từ Freedom House Political and Civil Rights, Stohl Personal Integrity để tiến hành các phép kiểm định nhằm:
- Xem xét sự khác biệt về các chỉ số nhân quyền của các quốc gia tham gia công ước và các quốc gia không tham gia;
- Xem xét sự thay đổi về các chỉ số nhân quyền của các quốc gia trước và sau khi tham gia công ước;
- Xem xét tác động của công ước ICCPR so với các yếu tố khác đã được chứng minh là có tác động tới tình hình nhân quyền của các quốc gia.
Các kết quả cho thấy các quốc gia tham gia công ước có điểm số nhân quyền cao hơn, tuy nhiên không có sự khác biệt đáng kể về điểm số nhân quyền của các nước này trước và sau khi tham gia công ước. Khi tiến hành phép kiểm định với nhiều biến số hơn, tác giả nhận thấy việc tham gia công ước ICCPR hầu như không có ảnh hưởng đối với tình hình nhân quyền.
Tuy nhiên, tác giả vẫn cho rằng các kết quả này không đủ để bác bỏ toàn bộ kỳ vọng tích cực rằng công ước ICCPR có thể tạo ra sự thay đổi tích cực. Theo tác giả, có thể tác động của công ước mang tính gián tiếp hơn khi tinh thần các điều khoản được thể hiện nhiều qua pháp luật quốc gia. Mặc khác, ông cũng để ngỏ khả năng rằng việc gia nhập công ước có thể là bước cuối trong một quá trình hội nhập quốc tế có tác động tới mong muốn bảo vệ nhân quyền của một quốc gia, khiến các nước này lần đầu thừa nhận các chuẩn mực và khái niệm toàn cầu.
Tham khảo và tóm tắt từ:
- International Covenant on Civil and Political Rights. https://www.ohchr.org/en/professionalinterest/pages/ccpr.aspx
- Keith, L. (1999). The UN International Convention on Civil and Political Rights: Does it make a difference in human rights behaviour? Journal of Peace Research, 36(1), pp. 95-118
- Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Quyền công dân, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội. (2012). Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ICCPR 1966. Nhà xuất bản Hồng Đức.
Footnotes
-
Ví dụ như việc thực hiện các hợp đồng mua bán giao hàng trả tiền, nếu một bên không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, giao hàng trễ hơn hoặc không đủ, vụ việc không có dấu hiệu lừa đảo và phạm tội hình sự thì bên không hoàn thành nghĩa vụ sẽ chỉ bị kiện đòi bồi thường hoặc chịu phạt tiền chứ không bị bỏ tù. ↩
-
Khi được công nhận là thể nhân trước pháp luật, một người có thể tham gia vào các mối quan hệ pháp luật bằng tên mình. Nhờ đó, họ có thể ký các hợp đồng, làm các giấy tờ hợp pháp, mở công ty, tham gia các vụ kiện,… ↩
-
Điều 2, Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966 (ICCPR). ↩
-
Điều 2, Điều 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966 (ICCPR). ↩
-
Các quyền có thể áp dụng giới hạn vì các lý do trên bao gồm các quyền được quy định tại Điều 12(3), 13, 14(1), 18(3), 19(3), 21, 22(2) của Công ước ICCPR ↩
-
Các quyền quy định trong các điều 6,7,8,11,15,16,18 của Công ước ICCPR. ↩